Thuở xưa, có một anh chàng xấu xí, con nhà nghèo, thất học, phải sinh sống bằng nghề khuân vác mướn ngoài chợ. Người ta gọi anh bằng "Thằng Bu".
Bu làm việc siêng năng, giỏi giắn, nên cuộc sống của anh không lấy gì làm chật vật cho lắm. Có điều anh rất buồn, khi chung quanh chẳng có ai coi trọng, nể vì anh hết. Cũng như hầu hết mọi người, anh cũng thèm thuồng quyền uy, lòng ái mộ, khát ngưỡng của đồng loại. Mặt mũi anh đã không thuộc loại đẹp trai, anh lại không có một làn hơi thiên phú để ca vọng cổ hay tân nhạc nên anh không thể tiến thân bằng con đường văn nghệ. Anh lại tứ cố vô thân, không tiền của nên khó mà mua danh vọng chức tước. Chữ nghĩa thì lại chẳng bằng ai ... Vậy thì phải làm cách nào cho thiên hạ ngán mình đây? Suy nghĩ suốt ngày đêm, chàng Bu chợt nảy ra một sáng kiến.
Một hôm, sau vài ly ba xi đế, Bu đến ngồi trước miễu bà Chúa Xứ, một vị thần không được thiêng cho lắm, nên nhang tàn khói lạnh, mỗi năm chỉ được người ta cúng cho một lần.
Bu đến trước cửa miễu, ngồi lắc lư, ợ ngáp liên hồi ... ban đầu chỉ có bọn trẻ con tụ tập xung quanh anh, sau đó có các bà con vô công rồi nghề, dần dần có đến cả hội đồng bô lão của làng nữa. Người ta nhìn nhau thì thầm: "Bà về! Bà về".
Vài mụ đàn bà góp ý, vàng hương hoa quả được mang đến, và chàng Bu nghiễm nhiên thành cái xác của bà Chúa Xứ. Từ đó, Bu không còn phải đi khuân thuê vác mướn nữa, người ta gọi anh bằng "Bà" bằng "Ngài" xúm xít cười vả lả để đón rước những lời nũng nịu, ỏng ẹo thoát ra từ đôi môi xám xịt của Bu. Anh mặc áo lụa, quần sa-teng trắng, đi hài cườm, thoa son phấn và đeo đồ trang sức.
Một tháng sau, Bu đã có vô số người ái mộ. Những kẻ trước kia chỉ dòm Bu bằng nửa con mắt, bây giờ lại kính cẩn lễ bái, đón nhận từng mệnh lệnh của anh. Người ta đến xin bùa phép của anh để mua may bán đắt, để được sanh con trai, con gái, đánh đề, đánh bạc, đua ngựa, đá gà, v.v ... và v.v...
Bởi vì Phật và chư vị Bồ Tát thường ít khi chịu khó chiều lòng những tham vọng ấy của chúng sanh, thánh thần thì bận thưởng thiện phạt ác, ma quỷ thì đòi ăn hối lộ ... Duy có Bu là không đòi hỏi gì hết, ngoài việc ước mong được thiên hạ chiều chuộng, tâng bốc, vuốt ve lòng tự ái của mình.
Ba tháng trôi qua ... những cuộc lên đồng, cầu đảo bất kể ngày đêm đã khiến Bu xuống sắc rõ rệt. Lớp son phấn dầy cộm không che khuất đôi mắt đầy quầng đen. Càng đông người tín mộ, anh càng phải lên đồng thật xuất sắc. Anh không còn đủ thì giờ để ăn uống ngủ nghỉ. Những lúc mệt quá, anh cũng muốn nghỉ ngơi để trở lại đời sống bình thường của anh. Nhưng lúc ấy thì phải trở lại chấp nhận cái bản thân tầm thường thấp kém của anh Bu khuân thuê vác mướn, một điều mà anh muốn chối bỏ. Anh phải chịu đựng những ánh mắt lạnh nhạt, khinh bỉ ... của người chung quanh, người ta sẽ lại gọi anh bằng "thằng", bằng "mày". Vì thế, dù mệt mỏi, anh phải đồng hóa mình với bà Chúa Xứ, một nhân vật do dân cư trong vùng lập ra và tôn thờ, chỉ ăn hương, uống hoa, sống bằng giọng đàn tiếng địch, cùng lời xưng tụng của người chung quanh.