Chữ Tham trong ý muốn mặc tình,
Rán định tánh trừ cho nó tuyệt.
Chữ gây gổ là Sân hãy diệt,
Cho nó đừng thấp thoáng trong lòng.
Thêm chữ Si thiệt quá lòng dòng,
Nên tỉnh trí tìm nơi dụt tắt.
Chữ Nhơn Ngã thật là quá gắt,
Ta chớ nên phân biệt với người.
Dẹp năm tên được mới mừng cười,
Vô pháp tướng mới là thiệt tướng.
Người tu hành phải trừ nghiệp chướng,
Với bốn ma mới đặng an nhàn.
Tửu nhiễm vào thân thể bất an,
Sắc mến nó ngày kia lao khổ.
Ta nghiệm xét từ thời Bàn Cổ,
Có ai dùng mà đặng thành Tiên.
Mà đời nay theo nó liên miên,
Chữ tài của khổ riêng một kiếp.
Bị tội cướp nào ai có tiếp,
Mà đời nay nó cứ mãi làm.
Chữ khí hùng khuyên chớ có ham,
Mà lao lý tấm thân trần thế.
Kẻ nhứt dạ thường sanh bá kế,
Để gạt người làm thế cho mình.
Ngày sau nầy lắm nỗi tội hình,
Sao sanh chúng chẳng lo cải sửa.
Bịnh ôn dịch thường hay ói mửa,
Mà dương trần chẳng chịu kiêng-dè.
Qua năm Dê đến lúc mùa hè,
Trong bá tánh biết ai hữu chí.
Ta chịu lịnh Tây Phương thọ ký,
Gìn Nghiệt Long đặng cứu dương-trần.
Nên ra đời dạy dỗ ân cần,
Khuyên bá tánh vạn dân liệu lấy.
Khổ với thảm ngày nay có mấy,
Sợ mai sau dòm thấy bay hồn.
Trừ tà gian còn thiện chỉ tồn,
Cảnh sông máu, núi xương tha thiết.
Trần với thế bây giờ nào biết,
Chừng nhìn xem hư thiệt mới tường.
Ta bây giờ tu niệm tầm thường,
Sau danh thể xạ hương khắp chốn.
Nhà giàu có xài không sợ tốn,
Phải để tiền cho kẻ nghèo nàn.
Lo ăn xài trà rượu xình-xoàng,
Chừng khổ não phàn nàn căn số.
Lời truyền sấm như bài toán đố,
Ai biết tầm thì đặng hưởng nhờ.
Ta khuyên tu dân cứ mãi ngờ,
Sợ gạt chúng kiếm xu kiếm cắc.
Bị ngoại quốc bán hàng quá gắt,
Nên dân ta chịu chữ cơ hàn.
Ta Khùng-Điên của cải chẳng màng,
Miễn lê thứ được câu hạnh phúc.
Cờ thế giới ngày nay gần thúc,
Nên Phật Tiên phải xuống hồng trần.
Chừng lao xao ác thú non Tần,
Thì Nam Quốc lương dân mới biết.
Nay dạy thế cậy cùng ngòi viết,
Với xác trần du thuyết ít hàng.
Ai nói chi Ta cũng chẳng màng,
Sao biết đặng dân đừng có tiếc.
Con phù-du hẫng hờ nào biết,
Thấy bóng đèn thì quyết chung vô.
Thảm thương thay chết héo chết khô,
Nhìn đèn nọ thấy mồ phù dũ.
Kệ khuyên trần đã mãn mùa thu,
Đeo danh lợi như con vật ấy.
Giống xe cát biển đông thường thấy,
Tên dã tràng rất uổng công trình.
Khi nước ròng nhờ lúc bình minh,
Lúc nước lớn cát kia tan rã.
Trần phú quí thì trần thong thả,
Chớ còn Ta cứ khổ lao hoài.
Viết kệ cơ ra giảng ít bài,
Mặc lê thứ làm không tự ý.
Coi rồi phải nhận cho hiểu lý,
Câu huyền sâu của kẻ Khùng nầy.
Bởi chữ Khùng của Phật của Thầy,
Chứ chẳng phải của người lãng trí.
Mê với tỉnh nhận ra là lý,
Thấy dương trần ngủ mãi ngủ hoài.
Thức dậy mà tầm Đạo kiếm bài,
Để thi cử khỏi mang tiếng rớt.
Sách Khuyến Thiện miệng kêu không ngớt,
Mà nào ai có thức dậy tầm.
Ta nghĩ suy cũng bắt hỗ thầm,
Nên than thở cũng trần ít tiếng.
Tâm sáng suốt như đài nguyệt kiến,
Tánh trong như nước bích mùa xuân.
Nếu không tu chừng khổ cũng ưng,
Đừng có trách sao không chỉ bảo.
Từ nhỏ tuổi đến người trưởng lão,
Mắc trong vòng sanh tử luân hồi.
Xuống Diêm Đình thấy tội hỡi ôi !
Đó mới biết có nơi địa ngục.