Cũng chép là Sứu Kìm Lâu Người nước Tề, được nổi tiếng là chí hiếu. Khi được bổ nhậm là Thái Thú ở quận Bình Lăng, đến nhậm chức được mười hôm, bỗng Kiềm Lâu thấy tâm thần bàng hoàng, mồ hôi chảy như tắm, biết là nhà có việc chẳng lành, liền xin từ chức. Về đến nhà, mới hay cha đau nặng đã hai ngày. Kiềm Lâu lại nghe thầy thuốc nói hễ người bệnh nặng mà phân đắng thì chữa khỏi, bằng trái lại phân ngọt thì khó chữa. Ông liền nếm thử phân của cha thì thấy ngọt, lòng vô cùng lo lắng đứng ngồi không yên. Đêm đêm ông đốt hương nhắm sao Bắc Đẩu. mà khấn xin được chết thay cha. Sau ông nằm mơ thấy có một người cầm một thẻ vàng có mấy chữ: Sắc trời cho bình an. Quả nhiên ngày hôm sau cha ông được khỏi bệnh ngay.
Nguyên bản:
Đáo huyện vị tuần nhật,
Xuân đình tao tật thâm,
Nguyện tương thân đại tử,
Thường phẩn khởi ưu tâm
Có nghĩa là:
Quan nhậm chức chưa quá mười ngày.
Cha ở nhà bị đau nặng,
Xin được chết thay cho cha già.
Thân rồi sinh lo lắng,
Diễn Quốc Âm:
Kiềm Lâu có danh Tề Quốc,
Huyện Bình Lăng nhậm chức thân dân.
Tới Nha chưa được một lần,
Như dội tâm thần thường đau.
Vó câu buồn bả.
Thăm cha bệnh đã hai ngày,
Nếm dơ vâng cứ lời thầy,
Đầu lưỡi chua cay trong lòng,
Chữ dạy bệnh trung nghi khổ,
Làm sao bệnh đở mới cam,
Đêm đêm hướng bắc triều tam.
Tánh mạng thay làm thân cha.
Cầu khẩn thấu tòa tinh tú,
Bình an vui thú đình vi,
Cho hay máy động huyền vi.
Minh truyện trước còn ghi kim đằng.